Tác dụng tăng cường sinh lý của na rừng hoàn toàn có cơ sở thực tế. Người ta nhận thấy rằng, giống loài của những con thú rừng đã tăng lên đáng kể, cùng với đó là những trái na bất kể chín hay sống đều bị ăn sạch. Thành phần hóa học của trái na rừng Sau hơn 7 năm rời rừng sâu trở về làng, “người rừng” Hồ Văn Lang dường như đã quen với cuộc sống cộng đồng. Có điều, trong giao tiếp với mọi người, anh rất ít khi mở lời. Bù lại, gặp ai anh cũng cười rất tươi, nụ cười ấy chỉ tắt khi có ai đó nhắc đến người cha quá cố của anh. Nhìn lại hoàn cảnh địa lý thiên nhiên với thiên tai lũ lụt hằng năm của vùng Thừa Thiên – Huế, hột cơm con cá đối với người bình dân chưa hẳn đã dễ làm ra nếu không phấn đấu cơ cực. Do đó, cách ăn uống của đa số người dân là “chém to kho mặn”. Ta hãy nghe -----"Cảm ơn các bạn đã ủng hộ và đón xem video của Hoàng NamNhấn like và Subcribe để theo dõi Clip mới nhất của Nam nhé:♫ Subscribe : w 10K views, 131 likes, 13 loves, 31 comments, 10 shares, Facebook Watch Videos from AWA MEDIA: Khi Những Đứa Trẻ Trong Rừng Ăn Sẽ Như Thế Này! #nguoirung . Du lịchĐiểm đếnViệt Nam Thứ năm, 17/10/2013, 0506 GMT+7 Người Chăm thích các món luộc và nướng, ít chuộng các món chiên xào. Tùy thuộc vào mùa nóng hay lạnh mà món ăn người Chăm có tính mát, chua hay cay. Các món mặn Người Chăm thích ăn canh bồi, một loại canh thập cẩm với nhiều thứ rau rừng như rau đay, rau sam, ngọn bầu, bí, cà dĩa.. Canh chua cũng được người Chăm ưa chuộng, nguyên liệu không thể thiếu để nấu canh chua là lá me non. Cá đồng thường dùng để nấu canh chua, ngon nhất vẫn là cá lóc. Vào mùa mưa có ễnh ương, người Chăm cũng có canh chua ễnh ương nấu với cà dĩa rất ngon. Về làng Chăm vào dịp Katé hay Rija Nagar, khi bà con ở đây làm dê cúng, bạn sẽ được dịp thưởng thức món ăn truyền thống lâu đời là nước xáo thịt dê. Nước xáo ăn chung với thịt dê luộc, rau ăn kèm là giem lá lốt và đọt chuối non thái nhỏ. Nhiều người Chăm thích ăn nước xáo thịt dê hơn là thịt dê luộc, vì họ xem nước canh là phần tinh túy và chứa nhiều chất dinh dưỡng nhất. Nước xáo thịt dê ăn kèm với lá lốt và đọt chuối thái nhỏ. Canh rau môn cũng là một đặc thù của ẩm thực Chăm. Món canh này ngày thường hiếm có, chủ yếu được nấu trong đám tang hay lễ tế trâu. Nấu canh rau môn không dễ, phải những người am hiểu truyền thống ẩm thực Chăm lắm mới nấu ngon được. Canh rau môn ăn lúc còn nóng mới ngon, ăn cùng với thịt trâu luộc và rau giem. Dông là loài bò sát có nhiều ở vùng đất nắng Ninh Thuận. Gỏi dông là một đặc sản trong ẩm thực của người Chăm Bà la môn, thường ăn với lá cà ri rừng. Đầu và đuôi dông được để riêng cho cánh đàn ông làm đồ nhắm rượu. Riêng lá cà ri rừng có thể rang, giã nhuyễn với muối để ăn lâu ngày. Ngoài ra, canh chua dông cũng được nhiều người ưa chuộng. Chuột đồng là món ăn phổ biến và dân dã ở xứ Chăm. Thịt chuột có nhiều cách chế biến như ram, nướng... nhưng ngon nhất vẫn là xào. Rau rừng ăn kèm với thịt chuột là đọt lim, lá xoài non hay rau dẹp. Món bánh Người Chăm có nhiều loại bánh, chủ yếu làm để phục vụ trong lễ nghi tôn giáo, cưới hỏi. Các loại bánh phổ biến là tapei anung bánh tét, tapei bilik bánh ít, tapei coh bánh cuốn, sakaya, ginraong laya bánh củ gừng, kadaor giống bánh đúc. Tapei anung cũng như bánh tét người Việt, bánh làm từ nếp, đủ loại nhân như thịt heo, đậu xanh, đậu phộng,… Tapei bilik thì giống như bánh ít. Bánh được làm từ bột nếp, có nhân mặn đậu xanh hoặc nhân ngọt dừa. Hai loại bánh này có mặt hầu hết trong các lễ tục truyền thống Chăm. Sakaya là loại bánh truyền thống và chỉ dành chiêu đãi những vị khách quý, tu sĩ, người cao tuổi. Chăm có câu “bánh tét ở trên - bánh sakaya ở dưới” phần nào phản ánh tầm quan trọng của hai loại bánh trên trong văn hóa ẩm thực Chăm. Bánh Ginraong Laya còn gọi là bánh củ gừng. Ginraong laya là loại bánh lâu đời và thể hiện tính khéo tay của phụ nữ Chăm. Bánh làm từ bột nếp, đường, trứng và men rượu. Bánh có vị ngọt của đường, béo của trứng và mùi thơm của gừng, do đó gọi nôm na là bánh củ gừng. Kadaor giống bánh đúc, được làm từ bột gạo xay mịn, pha với nước. Có hai loại, bánh lạt và bánh ngọt. Kadaor thường được tín đồ Chăm đội dâng cúng Po Aluah ở thánh đường Bani trong lễ Ramawan. Trong phép tắc ăn uống, người Chăm ăn chung một mâm và ngồi theo thứ bậc trong gia đình. Những vị tu sĩ có những kiêng cữ gắt gao như không được ăn cá trê, thịt thú vật chết... Tu sĩ Bàlamôn không được ăn thịt bò, tu sĩ Bani kiêng ăn thịt heo, thịt dông và nhiều kiêng kỵ khác. Ẩm thực Chăm phong phú và mang nhiều sắc thái riêng. Văn hóa trong ẩm thực cũng góp phần làm nên một phong cách ăn uống Chăm khác hẳn với những dân tộc khác. Paka Jatrang Mới nhất Thời sự Góc nhìn Thế giới Video Podcasts Kinh doanh Bất động sản Khoa học Giải trí Thể thao Pháp luật Giáo dục Sức khỏe Đời sống Du lịch Số hóa Xe Ý kiến Tâm sự Thư giãn Du lịchTư vấnĂn gì Thứ ba, 9/7/2019, 1013 GMT+7 Vị ngọt của mật ong thấm vào miếng thịt gà kèm theo mùi thơm của cơm dẻo để ai khi xa Tây Nguyên đều muốn quay lại. Gà nướng ăn với cơm lam là một trong những đặc sản núi rừng nổi tiếng của người đồng bào Tây Nguyên. Theo người địa phương, món ăn có xuất phát từ đồng bào dân tộc Ê Đê ở Buôn Đôn, Đắk Lắk. Sau này, đặc sản được người dân Tây Nguyên chế biến với nhiều phiên bản khác nhau. Gà nướng phải là gà chạy bộ, cho thịt săn chắc, lớp da mỏng giòn sau khi nướng sẽ không khiến thực khách cảm thấy ngấy mỡ. Gà đem đãi khách thường là gà tơ chỉ nặng trên dưới 1 kg. Qua sơ chế, gà nguyên con được ướp cùng các loại gia vị như sả, hành tím, tỏi giã nhuyễn, ngũ vị hương, mật ong, tiêu, nước mắm, muối và các loại lá rừng... trước khi kẹp que tre và nướng. Đầu bếp phải trở gà thật đều tay để thịt chín tới, và liên tục thêm than để đảm bảo lửa vừa vặn. Quanh bếp than hồng tự chế, những con gà kẹp que tre cháy xèo xèo, mùi thịt chín thơm theo khói lan toả cả một góc sân. Ngoài gà, thịt heo rừng nướng cũng là món phổ biến trong thực đơn các nhà hàng miền núi. Gà nướng không thể thiếu chén muối lá é, một loại lá có mùi thơm gần như húng quế. Chén muối chấm không quá cầu kỳ, nhưng lại quện vị thêm hương cho thịt gà. Để nấu cơm lam, đầu bếp chọn ống tre non, chặt đoạn dài rồi rửa sạch, đổ gạo cách miệng ống một đoạn để chừa chỗ cho gạo nở và bít lại bằng lá rừng. Gạo ngon là loại nếp nương có hạt nhỏ, thon dài và dẻo thơm khi chín. Lúc thịt gà toả mùi thơm nức cũng là lúc những ống cơm được vùi trong lửa lớn khoảng 45 - 60 phút cho tới khi gạo chín. Cơm chín, đầu bếp chặt ống tre từng đoạn, bày lên đĩa cho khách. Người Tây Nguyên không chẻ bớt lớp vỏ bên ngoài mà để nguyên ống tre. Khi thưởng thức, bạn tách vỏ tre bên ngoài để thấy phần nếp nương dẻo thơm. Bạn có thể chấm cơm với muối lạc, làm từ lạc đậu phộng rang, muối và chút đường. Các quán ăn thường phục vụ gà nướng nguyên con, để khách tự xé gà thưởng thức. Thịt gà nướng ăn chắc, ngọt đậm đà và dậy mùi gia vị thơm quện với mật ong. Chấm miếng thịt vào chén muối, vị giác của bạn sẽ như "nổ tung" bởi vị cay nồng của lá é. Những các quán ăn được du khách mách nhau nhiều nhất nằm ở Pleiku Gia Lai, nổi bật là khu vực gần Biển Hồ. Những địa chỉ hút khách còn xây dựng không gian đậm nét văn hoá Tây Nguyên. Bạn sẽ ngồi thưởng thức món ăn trong những ngôi nhà sàn, trên vách treo cồng chiêng. Các quán ăn thường bán từ trưa đến tối muộn, giá mỗi con gà nướng ăn kèm cơm lam khoảng đồng. Cơm lam mà một món ăn nổi tiếng, thường được các du khách gọi món mỗi khi du lịch lên những vùng cao như Tây Bắc, Tây Nguyên,… Vậy món cơm này là gì? Nó bắt nguồn từ đâu? Làm sao để làm ra một thanh cơm lam Tây Nguyên đúng chuẩn? Hãy cùng nhau tìm hiểu trong bài viết dưới đây. Nội dung bài viết1. Cơm lam là gì?2. Cơm lam bắt nguồn từ đâu?3. Món ăn chay tốt cho sức khỏe4. Cách làm món cơm lam Tây Nguyên “đặc sản” Chọn nguyên Làm cơm Khao Lam của người Thái5. Gà nướng cơm lam Tây Nguyên 1. Cơm lam là gì? Đối với những người dân sinh sống lâu năm tại đồng bằng, nấu cơm bằng những chiếc nồi, niêu đã trở thành một việc quá quen thuộc. Nhưng đối với những người vùng cao, đặc biệt là người thường xuyên phải lên núi, vào rừng; món cơm của họ sẽ được nấu trong những ống nứa, được gọi là cơm lam. Cơm lam là món ăn của những người vùng cao Cơm lam trong tiếng Khmer được gọi là Kralan; Khao lam trong tiếng Thái và Lào, còn tiếng trung được gọi là trúc đỗng phạn. Ở Indonesia và Malaysia, món cơm lam được người dân gọi là Lemang. Đây là một loại cơm được làm từ gạo; thông thường người ta sẽ sử dụng gạo nếp. Đối với người Việt, đây là món cơm đặc trưng của những người dân vùng Tây Nguyên, Tây Bắc và Đông Bắc. Đây cũng là món ăn của một số dân tộc khác tại các nước láng giềng như Lào, Campuchia, Myanmar, Thái Lan, và Trung Quốc. Tuy đều là gạo nấu chín thành cơm; nhưng cách nấu khác biệt so với người miền xuôi đã khiến cơm lam trở thành một món ăn thú vị; gắn liền với hình ảnh những người con của núi rừng. Khi làm cơm, gạo được cho vào một ống tre, hoặc nứa,… kết hợp cùng một số nguyên liệu khác rồi nướng trên lửa. “Lam” có thể được hiểu đơn giản là phương thức dùng những ống tre, nứa thay cho nồi, niêu để nấu cơm. Cách chế biến này tuy có vẻ dân dã nhưng lại mang tính chất rất “nghệ sĩ” của những người vùng cao. Được biết, món cơm này cũng xuất hiện nhiều trong thời khoảng thời gian chinh chiến. Theo tác giả Đào Duy Từ đã viết trong cuốn “Hổ trướng khu cơ”; binh lính ngày xưa thường nấu cơm theo cách làm cơm lam trong khi hành quân. Cơm được đựng trong ống tre, thêm chút nước rồi đậy chặt nút là có thể nướng được, ngay cả khi ngồi trên lưng ngựa với một bó đuốc. 2. Cơm lam bắt nguồn từ đâu? Thật ra, cụm từ “cơm lam” ngày nay đã vô cùng phổ biến, không còn quá xa lạ đối với chúng ta. Ở Việt Nam, đây được coi như là một món “đặc sản” của các dân tộc thiểu số như dân tộc Tày, Mường, Dao,… Tuy nhiên, không phải ai cũng biết đến nguồn gốc ra đời của nó. Các già làng kể lại, khi xưa, những người thuộc dân tộc thiểu số sống chủ yếu ở trên các đỉnh núi cao; hoặc trong những cánh rừng trập trùng, họ sống theo kiểu du canh du cư, nên thường không ở nơi nào được đến hai mùa vụ. Bởi nương rẫy có đặc điểm là độ dốc cao, nên sẽ không còn màu mỡ như lần đầu canh tác và thu hoạch được nữa. Nếu họ tiếp tục ở lại, trồng trọt, canh tác; thì mùa vụ thu hoạch lần sau sẽ không còn được thịnh như mùa trước. Không phải ai cũng biết đến nguồn gốc ra đời của cơm lam Họ cứ liên tục di chuyển từ vùng núi này sang vùng núi khác; nên đời sống rất khó khăn và thiếu thốn. Đến cả việc làm nhà cửa cũng chỉ tạm bợ, để đủ sống qua một mùa vụ rồi lại dọn đi. Những đồ dùng thiết yếu trong nhà như nồi niêu, bát đũa cũng không được đầy đủ. Vì thế, họ đã nghĩ ra những cách nấu ăn để thích nghi với điều kiện thiếu thốn đó. Bởi vì sống ở trong những cánh rừng, đồi núi cao; những cây gỗ, cây nứa là vật liệu luôn luôn có sẵn. Từ đó, đồng bào ta đã nghĩ ra cách làm gạo chín thành cơm mà không cần chiếc xoong, nồi nào; đó là lam gạo đã vo trong những ống tre, nứa. Cách nấu tuy đơn giản, nhưng lại tiện lợi đối với người dân miền núi. Hơn nữa, thành phẩm làm ra cũng vô cùng thơm ngon. Vì thế, phương pháp nấu cơm này được duy trì mãi cho đến hiện tại; và món cơm lam đã trở thành một món ăn đặc trưng mà khách du lịch nào khi lên những vùng cao đều muốn thử. 3. Món ăn chay tốt cho sức khỏe Thông thường, người ta sẽ chỉ ăn cơm lam với muối vừng; ít khi nào ăn cùng những thức ăn kèm khác. Vì vậy, đây đích thị là một món ăn chay thanh đạm của rừng núi; một khi ăn vào sẽ khó mà quên được. Cơm lam là một món chay có hàm lượng dinh dưỡng cao Tuy món ăn này không có thịt động vật; nhưng giá trị dinh dưỡng của gạo nếp và lạc, vừng cũng rất dồi dào. Bởi nó bao gồm cả nước, gluxit, lipit, và protit. Ngoài ra, gạo nếp cũng chứa nhiều loại muối khoáng như canxi, photpho, và vitamin B1. Bên cạnh đó, vừng là một nguyên liệu rất giàu khoáng chất; trong đó bao gồm canxi, photpho, sắt, cùng một số loại vitamin như B1, B2, caroten,… Lạc cũng cung cấp xenlulozơ và một số vitamin đáng kể khác. Lipit trong những hạt lạc và vừng có chứa nhiều axit béo không no; chất này không làm tăng lượng cholesterol trong máu và vữa xơ động mạnh. Gạo, vừng, lạc chứa hàm lượng protid tốt; chất này sẽ giúp cơ thể dễ tiêu hóa hơn. Ngoài ra, chúng còn chứa nhiều axit amin cần thiết để nuôi dưỡng cơ thể như lysin, methionin, tryptophan, isoleucin,… Cơm lam đích thị là một món ăn chay bổ dưỡng. Ngoài ra, đồng bào ta ở miền núi cũng thường xuyên hái những loại rau rừng ngon để ăn cùng; bổ sung thêm chất xơ từ rau vào khẩu phần ăn của mình. 4. Cách làm món cơm lam Tây Nguyên “đặc sản” Món cơm này bắt nguồn từ đồng bào miền núi, có những nguyên liệu vô cùng đơn giản. Vì vậy cách làm của nó cũng không hề cầu kỳ. Chọn nguyên liệu Để làm món cơm này, những ống tre, nứa được chọn phải tươi; không bị non quá hay già quá. Sau đó, dựa vào các đốt tre, người ta sẽ chặt ra thành từng khúc, chia ra mỗi đốt là một ống cơm lam. Tiếp theo là bước chọn gạo nếp. Bước này sẽ rất quan trọng, vì độ dẻo, thom ngon của cơm thành phẩm sẽ phụ thuộc rất lớn vào loại gạo nếp được chọn. Để có một ống cơm thật ngon, cần chọn những loại gạo nương mới gặt; hạt phải to và mẩy, trắng, và có mùi thơm. Nguyên liệu chính của cơm lam là gạo nếp và những ống tre, nứa Sau một buổi làm nương rẫy mệt mỏi, một hớp nước tinh khiết được tích tụ trong ống nứa, vừa mát vừa ngọt như là món quà của thần rừng, thần núi gửi đến những người con tần tảo. Vì thế, nước nấu cơm dùng chính từ nước trong thân cây tre, nứa là ngon nhất. Có thể lấy nước từ suối nhưng hương vị sẽ khó bì được. Làm cơm lam Sau khi vo sạch và ngâm khoảng 5 đến 6 tiếng, gạo nếp sẽ được đồ vào những ống nứa non cùng với nước. Cơm lam ngon nhất là khi nước nấu gạo được dùng là nước ở chính bên trong những ống nứa. Sau đó, người dân sẽ dùng những cuộn lá dong, hoặc lá chuối để nút chặt một đầu rồi bắt đầu nhóm lửa bằng củi. Khi làm, ống cơm sẽ được nướng xoay liên tục, đều tay trên lửa. Lam cơm được một lúc, họ sẽ dùng tay ấn để kiểm tra độ mềm và chín của hạt cơm. Một cách khác để nhận biết thời gian cơm chín, là khi lớp vỏ nứa cháy tạo thành lớp than mỏng, phủ xung quanh ống nứa, và có mùi thơm ngào ngạt của cơm nếp. Sau khi lam cơm, lớp vỏ cháy bên ngoài sẽ được loại bỏ, để lại lớp vỏ trắng Nếu ăn cơm ngay sau khi vừa nấu; chỉ cần chặt và tách lớp ống nứa bên ngoài ra. Còn nếu không ăn luôn mà muốn để lâu, người ta sẽ bỏ đi lớp nứa cháy bên ngoài; để lại một lớp vỏ màu trắng để bọc cơm. Bằng cách này, cơm bên trong thậm chí sẽ dùng được cả tuần màu không sợ bị thiu. Khao Lam của người Thái Khác với người Việt chúng ta, cơm lam của người Thái, hay còn gọi là Khao Lam; cũng rất độc đáo bởi hương vị mới lạ và cách nấu đặc biệt. Với món này, người dân xứ sở chùa Vàng sẽ trộn gạo nếp với nước cốt dừa, đậu đỏ hoặc đậu đen; cùng một chút gia vị khác như đường, muối rồi mới cho vào ống tre. Cũng có khi người ta sẽ dùng những chiếc lá cẩm để cuộn bên ngoài gạo nếp; giúp món Khao Lam thành phẩm sẽ có màu tím rất đẹp mắt. Khao Lam của người thái có màu tím đẹp mắt Không những thế, người Thái Lan còn có loại cơm lam sầu riêng rất nổi tiếng. Món cơm này được làm từ gạo nếp, nêm thêm chút đường và trộn cùng cơm sầu riêng; tạo ra một hương vị béo ngậy, đặc sắc. Cách lam cơm cũng tương tự như của người Việt Mình. Sau khi cơm chín, lớp vỏ cháy bên ngoài sẽ được bỏ đi. Cơm lam này cũng thường được chấm với nam phrik, đây là một loại nước chấm kiểu Thái, rất phù hợp để ăn với cơm; làm tăng độ ngon của món ăn dân dã này. 5. Gà nướng cơm lam Tây Nguyên Cơm lam thường được ăn với muối vừng, muối riềng là ngon nhất. Vị muối riềng mặn mặn, cay cay hòa lẫn với vị ngọt thơm của cơm tạo nên một món ăn vừa ngon, vừa thanh đạm. Bên cạnh đó, với những người thích ăn thịt, món cơm này cũng có thể được ăn chung với thịt heo quay hoặc gà nướng. Điển hình là món gà nướng cơm lam của người Tây Nguyên. Đây là một trong những món nổi tiếng của người dân vùng rừng núi Tây Nguyên. Theo lời kể của những người dân địa phương, món gà nướng cơm lam xuất phát từ người dân tộc Ê Đê ở Buôn Đôn, Đắk Lắk. Về sau, món ăn được người Tây Nguyên phổ biến rộng rãi hơn và thay đổi thành nhiều phiên bản khác nhau. Để làm món này, chú gà được chọn phải là gà chạy bộ, vì thịt gà này sẽ săn chắc hơn, lớp da giòn, ít mỡ, khi ăn sẽ không bị ngấy. Khi nướng, gà phải được trở đều tay để thịt được chín đều các bên. Than cũng phải liên tục được thêm vào để đảm bảo độ ổn định của lửa. Gà nướng cơm lam bắt nguồn từ người dân tộc Ê Đê Khi thịt gà bắt đầu tỏa hương thơm lừng cũng thường là lúc những ống cơm đã chín mềm, chỉ chờ đợi được phục phụ đến thực khách. Đối với người Tây Nguyên, cơm lam của họ sẽ không được chẻ bỏ đi lớp bên ngoài, mà sẽ để nguyên một ống tre. Khi ăn, bạn sẽ tự tay tách vỏ tre để thấy được phần gạo nếp nương thơm lừng, ngọt lịm. Chấm cùng một chút muối vừng là ngon tuyệt vời. Để hoàn tất món gà nướng cơm lam, không thể thiếu gia vị chấm kèm chính là một đĩa muối lá é. Đây là một loại lá có mùi thơm khá giống với lá húng quế, rất hợp để ăn cùng gà nướng, tăng gấp đôi vị ngon cho món gà này. Khi ăn món này, bạn sẽ được phục vụ gà nướng nguyên con, tự tay xé gà và thưởng thức để trải nghiệm trọn vẹn cách ăn của người đồng bào nơi này. Thịt gà săn chắc, ngọt thơm cùng mùi mật ong nước thơm lừng. Một miếng gà chấm kèm một chút muối, bạn sẽ được cảm nhận như mọi tinh hoa của thế giới ẩm thực đang hội tụ đủ trong khoang miệng. Món cơm này cho đến ngày nay đã trở nên nổi tiếng hơn nhờ cách nấu dân dã, nhanh, tiện lợi mà vẫn giữ nguyên giá trị dinh dưỡng của hạt gạo. Từ “lam” trong cơm lam có nghĩa là nướng. Hi vọng bạn bài viết này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về món cơm lam – “đặc sản” của những người con núi rừng! Xem thêm Món ăn Việt Nam có những đặc trưng riêng nổi bật nào? Chè Đậu Đỏ Và Những Công Dụng Tuyệt Vời Bạn Nên Biết U Minh Hạ được biết đến là vùng đất gắn liền với nhiều huyền thoại từ thuở khai hoang lập ấp. Đặc biệt, giữa U Minh Hạ mênh mông với những cánh rừng tràm nguyên sinh vẫn còn giữ lại “vị ngọt” chính gốc của đất phương Nam thông qua nghề “ăn ong” độc đáo, được truyền từ bao thế hệ nay. >>> Đọc thêm Truyền Thuyết Đầm Thị Tường Ở Cà Mau Theo Giám đốc Vườn Quốc gia U Minh Hạ, toàn vườn quốc gia có đến vùng đệm, là diện tích của vườn nằm trên địa bàn các xã Khánh Lâm, Khánh An thuộc huyện U Minh và các xã Khánh Bình Tây Bắc, Trần Hợi thuộc huyện Trần Văn Thời. Hệ sinh thái rừng tràm cả nước duy nhất chỉ còn lại tại Cà Mau với khoảng là chưa bị con người tác động. Nơi đây cứ mỗi khi hoa tràm kheo sắc là bắt đầu mùa “kiếm cơm” của những người dân làm nghề gác kèo ong. Ở vùng rừng U Minh Hạ, nói đến nghề gác kèo ong, gia đình ông Trần Văn Nhì khá nổi tiếng, bởi hơn 40 năm trong nghề, ông vẫn giữ được nguyên hồn cốt của nghề “ăn ong” từ xưa đến nay. Những tổ ong to khổng lồ, chi chít nào là ong thợ, ong đực và cả mật ong ngọt ngào nữa Ông Út Nhì kể khi còn nhỏ xíu, thấy cha đi gác kèo, ông đã mê nhưng không được đi cùng. Nhiều lần, ông cùng đám bạn phải lén theo chân người lớn để học nghề. Rồi cũng tay cây, tay dao, ông cùng các bạn vào những đám sậy gần nhà gác kèo. “Ong thời đó nhiều vô kể, người lớn gác 10 cây kèo ăn 9 cây. Nhưng với tài học lóm, đám trẻ tụi tui gác hơn chục cây kèo chỉ có một ổ ong nhỏ xíu. Lần đầu “ăn ong”, mỗi đứa bị ong đốt hơn chục mũi” - ông Út Nhì nhớ lại. Nghề "ăn ong" lắm công phu, lúc đầu còn bị ong đốt cho sưng cả mặt, cả người Mãi đến năm 12 tuổi, ông Út Nhì mới được ba cho theo học nghề. Theo thời gian, ông được truyền dạy từ cách quan sát, chọn điểm làm kèo cho đến cách làm kèo. Đam mê, chăm chút học nghề nhưng cũng mất khoảng 10 năm sau ông mới được xem là thợ “ăn ong” chuyên nghiệp. >>> Đọc thêm Top 5 Đặc Sản Cà Mau Đậm Tình Miền Tây Cây tràm U Minh Hạ nhiều năm nay chưa đem đến ấm no cho người dân. Mùa khô là thời điểm thích hợp nhất đối với những người chuyên đi gác kèo lấy mật ong ở miệt rừng U Minh. Song khi được hỏi về lịch sử nghề “ăn ong”, chú Út Nhì lắc đầu nguây nguẩy. Từ nhỏ, chú Út đã theo cha, chú vào rừng lấy mật ong tràm. Trong hành trình mưu sinh ấy, con chữ bị đánh rơi dưới bìa rừng. Nhưng bù lại, cái nghề gác kèo ong thì ngày càng thạo. Trong hành trình mưu sinh ấy, con chữ bị đánh rơi dưới bìa rừng, bù lại, cái nghề gác kèo ong thì ngày càng thạo Mùa vụ gác kèo ong phụ thuộc vào mùa hoa tràm trổ bông nhiều, thuận nhất là mùa khô, từ giữa tháng chín đến tháng 3 năm sau. Trong khi đó, mùa nước từ tháng năm đến tháng tám âm lịch, bông tràm không nhiều bằng mùa hạn. Bởi vậy, sản lượng ong cho mật vào mùa hạn thường cao gần gấp hai lần so với mùa nước. “Với 260 kèo ong, bình quân mỗi năm gia đình tôi thu từ 400 đến 500 lít mật”, anh Chơn chia sẻ. Mùa vụ gác kèo ong phụ thuộc vào mùa hoa tràm trổ bông nhiều, thường là mùa khô Ở miệt rừng xã Nguyễn Phích có khá nhiều hộ cùng nghề như gia đình của chú Út Nhì. Tính luôn gia đình chú Út Nhì, trong hợp tác xã hiện có 40 xã viên, gác hơn kèo ong trong khu rừng rộng 520ha. Nhờ có diện tích rừng nằm trong Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau cho nên các hộ xã viên của hợp tác xã được Ban quản lý Khu dự trữ sinh quyển hỗ trợ vốn, tập huấn kỹ thuật, được trang bị dụng cụ bảo hộ cần thiết. Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau Chú Út Nhì tiết lộ, ong vùng này hút nhụy hoa tràm, cho nên mật có màu hơi đỏ. Trong khi đó, ở khu rừng nguyên sinh Vườn quốc gia U Minh Hạ, do ong hút nhụy hoa của nhiều loại cây hỗn tạp cho nên mầu mật vàng óng. Nơi nào trồng nhiều cây keo lai, mật ong cũng có màu đỏ nhẹ nhưng để lâu ngày sẽ có màu sậm hơn. >>> Đọc thêm Cá Lóc Nướng Trui - Đặc Sản Dân Dã Miền Tây “Dù mùa nào đi nữa thì mật ong rừng U Minh vẫn nguyên chất, bảo đảm chất lượng tốt. Đó cũng là lý do “Mật ong U Minh hạ” được Cục Sở hữu Trí tuệ cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể vào năm 2011”, Chú Út Nhì giải thích. Mật ong tràm rừng U Minh nổi tiếng với chất lượng đặc biệt Nghề gác kèo ong chủ yếu nhờ vào năng khiếu, kinh nghiệm của từng người đi ăn ong, ví như cách chọn loại cây để làm kèo, địa điểm để gác kèo…. Song, phải bảo đảm được nguyên tắc “một phần nắng, hai phần mát”. Cụ thể, phải chọn nơi gác kèo có trảng sậy, cả nắng sáng và nắng chiều đều rọi được vào một phần của kèo ong. Khi thu hoạch ong rừng, dân phong ngạn không bao giờ cắt hết tàng ong trên kèo ong mà lúc nào cũng chừa lại một góc tàng ong để con ong không bỏ tổ. Đó cũng được coi là một cách làm “có hậu”, giống như sống ở đời, phải có trước có sau. Chú Út Nhì chia sẻ kinh nghiệm trong nghề "ăn ong" Vùng Tây Nam Bộ có 2 mùa nắng và mưa. Vào mùa ăn ong từ tháng 12 đến tháng 6, theo thợ gác kèo ong ngồi ghe chạy sâu vào rừng tràm, bạn sẽ nhìn thấy những tổ ong ẩn hiện giữa các tầng lau sậy và cây tràm chằng chịt. Sau khi dùng bùi nhùi un khói, bầy ong bị ngạt khói lập tức bay vút lên, để lộ ra tổ ong với tàng mật căng mọng. Những tổ ong ẩn hiện giữa các tầng lau sậy và cây tràm chằng chịt Thợ gác kèo ong nhanh tay cắt lấy tàng mật, hứng vào thùng rồi tất cả “rút quân” nhanh để tránh bị ong phản kèo. Ra tới bìa rừng, bạn có thể ngồi nhấm nháp một miếng ong non trắng sữa chấm với mật ong vàng tươi, óng ánh như mứt cam. Vị ngọt béo đê mê tan nơi đầu lưỡi sẽ là những trải nghiệm thú vị cho bạn. Thợ gác kèo ong nhanh tay cắt lấy tàng mật, hứng vào thùng rồi tất cả “rút quân” nhanh để tránh bị ong phản kèo Bài viết này có hữu ích với bạn hay không? Rất hữu ích Hữu ích Không hữu ích Đợi một xíu... Chúng tôi nghĩ rằng có thể bạn đang dùng các công cụ tự động để xem trang của chúng tôi. Vui lòng xác minh bạn là người ID Tham chiếu f04195fb-085d-11ee-87d3-4d56744f5247 Điều này xảy ra có thể là vì một trong những lý do sau Javascript bị bất hoạt hoặc bị chặn ví dụ như công cụ chặn quảng cáo Trình duyệt của bạn không hỗ trợ cookies Vui lòng đảm bảo Javascript và cookies đã được trình duyệt của bạn cho phép và không có gì chặn việc tải về.

cách ăn của người rừng